Hầu hết mọi người đều nghe rằng Đức Phật đã giác ngộ, và các tu sĩ tìm kiếm sự giác ngộ. Nhưng ý nghĩa thật sự của giác ngộ là gì? Trong văn hoá phương Tây, vào thể kỷ 18, từ “giác ngộ” thường gắn liền với tri thức và kiến thức. Còn sự giác ngộ trong Phật giáo là một cái gì khác và có thể đó là một trong những khái niệm khó giải thích nhất của tôn giáo này.
Nội dung bài viết
Giác ngộ là gì?
Giác ngộ là một trạng thái tri thức hay trí tuệ hoàn hảo, kết hợp với tình thương vô biên. Kiến thức trong trường hợp này không có nghĩa đơn thuần là sự tích lũy dữ liệu kinh nghiệm khổng lồ hoặc khả năng mô tả về thế giới hiện tượng đến những chi tiết nhỏ nhất và chính xác nhất.
Giác ngộ là sự hiểu biết về cả hai phương thức tương đối của sự tồn tại (cách mà mọi thứ xuất hiện với chúng ta) và chế độ cuối cùng của sự tồn tại (bản chất thật của những hiện diện tương tự). Điều này bao gồm cả tâm trí chúng ta cũng như thế giới bên ngoài. Giác ngộ là thuốc giải độc cho sự thiếu hiểu biết và đau khổ.
Do sự thiếu hiểu biết, chúng ta thường nghĩ đến một viễn cảnh méo mó về thực tại khiến chúng ta nghĩ rằng những gì chúng ta thấy là vĩnh viễn và bền vững, hoặc “cái tôi” của chúng ta là một thực thể thực sự và tự trị. Điều này dẫn chúng ta đến những sai lầm khi vui sướng hoặc ngăn chúng ta hướng đến hạnh phúc lâu dài.
Sự thiếu hiểu biết cũng làm cho chúng ta cố gắng xây dựng hạnh phúc cho riêng mình trên những đau khổ của người khác. Chúng ta bị lôi kéo vào cái gì đó thỏa mãn “cái tôi” và chống lại những gì có thể làm hại nó. Do đó, từng chút một, chúng ta tạo ra ảo giác tinh thần kéo dài và khiến cho sự bình an nội tâm của chúng ta bị hủy hoại.
Giác ngộ trong Phật giáo là thuốc giải độc cuối cùng cho sự đau khổ. Theo nghĩa này, dường như việc biết được đường kính của mặt trời hoặc khoảng cách giữa nó với trái đất có thể rất thú vị, nhưng nó không thể dạy chúng ta làm thế nào để trở thành người tốt hơn.
Một người đàn ông đã hỏi đức Phật một số câu hỏi về vũ trụ. Đáp lại, Ngài nhặt một ít lá và nói: “Có nhiều lá trong tay tôi, hay trong rừng?” “Dĩ nhiên là trong rừng nhiều lá hơn,” người đàn ông trả lời. Đức Phật tiếp tục: “Vâng, nhưng lá trong tay tôi đại diện cho kiến thức dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”
Bằng cách này, Đức Phật cho thấy rằng một số câu hỏi là không cần thiết. Thế giới có vô số lĩnh vực nghiên cứu, nhiều như lá của rừng. Nhưng nếu những gì chúng ta muốn hơn bất cứ điều gì khác là giác ngộ, thì tốt hơn là nên tập trung hoàn toàn vào mục đích đó, và tập hợp lại những kiến thức có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ của chúng ta.
Tại Ấn Độ, các bậc giác ngộ được gọi là Dwijas, có nghĩa là sinh hai lần. Một lần, bạn được sinh ra từ trong bụng mẹ và điều đó diễn ra tự nhiên. Khi sinh ra, bạn đã mang sự ngây thơ và hạnh phúc nhất định đến với thế giới này. Một đứa trẻ vô tội và hạnh phúc. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn chúng sẽ bị lấy đi. Trẻ em ngày nay trở nên căng thẳng từ 5 đến 6 tuổi vì sự ngây thơ của chúng bị huỷ hoại tùy thuộc vào khối lượng ảnh hưởng mà mọi người xung quanh gây ra.
Bây giờ, nếu bạn muốn được sinh ra một lần nữa, thì bạn phải chết. Nhưng điều này không có nghĩa là chết về thể chất mà là về tinh thần. Nếu bạn chết theo cách của bạn, tiêu diệt tất cả mọi thứ mà bạn gọi là “bản thân mình”, thì bạn sẽ được sinh ra một lần nữa. Loại tái sinh này xảy ra không phải tự nhiên mà là thông qua ý thức của bạn.
Một lần nữa bạn trở nên hạnh phúc và vô tội, nhưng nhận thức đầy đủ. Bây giờ, niềm vui và hạnh phúc này không ai có thể lấy đi. Vì vậy, những gì bạn gọi là “giác ngộ” có nghĩa là một sự tự hủy diệt có ý thức.
Dâu tây vẫn có mùi vị của dâu tây và những lời khắc nghiệt vẫn còn khắc nghiệt, nhưng bây giờ chúng ta đã biết mọi thứ liên quan đến mọi thứ khác như thế nào, và ngay cả những thứ khó giải thích nhất cũng được thắp sáng từ bên trong bằng một ánh sáng rõ ràng chân thật.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người không nghĩ đến sự giác ngộ. Họ chỉ cố gắng sống tốt hơn một chút, họ muốn sống một cách hiệu quả hơn trong sự bình an và hạnh phúc ngắn hạn.
Thông thường, nếu chúng ta không hài lòng với những gì chúng ta đang tìm kiếm trong cuộc sống, chúng ta sẽ không bao giờ tìm kiếm bất cứ điều gì cao hơn.
Nếu bạn nói về sự giác ngộ đối với một người vô gia cư, họ sẽ trả lời: “Cảm ơn, nhưng tôi cần một ổ bánh mì!”.
Thiền sư Shunryu Suzuki (1904-1971) nói về giác ngộ:
“Đó là một điều bí ẩn đối với những người không có kinh nghiệm giác ngộ, giác ngộ là điều tuyệt diệu, nhưng nếu họ đạt được điều đó, nó không là gì cả, nhưng nó không phải là không có gì, bạn hiểu không?” Đối với một người mẹ có 3 đứa con, thì việc có con không có gì đặc biệt, nhưng cũng có thể là một cái gì đó. Bạn có thể gọi nó là “Phật tánh”, “tỉnh thức” hoặc “giác ngộ.” Bạn có thể gọi với nhiều tên, nhưng đối với người có nó, nó không là gì, và nó là cái gì đó.”
Một số người cho rằng, các bậc giác ngộ có khả năng phi thường, thậm chí cả năng lực siêu nhiên có thể nhìn thấy mọi thứ. Tuy nhiên, những kỹ năng này không phải là bằng chứng cho sự giác ngộ, cũng không phải là điều cần thiết cho nó. Ở đây cũng vậy, chúng ta được cảnh báo không theo đuổi những kỹ năng tinh thần có nguy cơ nhầm lẫn ngón tay chỉ vào mặt trăng là mặt trăng.
Trạng thái giác ngộ là như thế nào?
Đây là một câu hỏi hay và đức Phật đã giải thích về trạng thái giác ngộ như sau: “Ở đâu không có sự hài lòng hoặc không hài lòng, ở đó có sự trung lập và nhận thức rõ ràng, đó là bản chất thuần khiết của tâm”. Những người giác ngộ được gọi là A-la-hán (Arahant).
Vậy các vị A La Hán ở đâu khi họ chết?
Đây là một câu hỏi rất khó, nhưng Đức Phật đã làm cho nó đơn giản theo cách này. “Khi chúng ta thắp sáng ngọn nến, ánh sáng tắt. Bạn nghĩ ánh sáng sẽ đi đâu?” Tất cả những nghiệp thiện hay nghiệp xấu sẽ không còn nữa, không còn kết quả của nghiệp. Không còn hạnh phúc hay buồn bã nữa, không có thêm niềm vui hay thất vọng, không có sự hài lòng hay sự không hài lòng!
Làm thế nào để giác ngộ?
Chúng ta đã nói rất nhiều về việc giác ngộ là gì, nhưng làm thế nào để chúng ta trở thành một người “giác ngộ”? Mục tiêu chính của việc thực hành thiền (một phần của Bát Chánh Đạo) là giác ngộ.
Thầy Hsing Yun giải thích:
Người ta có thể tìm kiếm sự giác ngộ bằng cách thực hành thiền, nhưng chúng ta nên thực hành như thế nào để chúng ta đạt được giác ngộ? Giác ngộ thật sự không thể đạt được một cách dễ dàng. Chúng ta phải phát triển những khoảnh khắc sâu sắc và hiểu biết mỗi ngày. Những giây phút nhỏ bé của sự giác ngộ tích lũy theo thời gian, cho đến khi chúng đạt tới đỉnh điểm trong một ngọn đèn sáng tuyệt vời của sự giác ngộ.
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Nguyên thủy
Trong Phật giáo Nguyên Thủy, Bồ đề (tiếng Phạn: Bodhi) là có nghĩa là “thức tỉnh“, và nó cũng thường được dịch là “giác ngộ.”
Bồ đề có liên quan đến sự hoàn thiện Tuệ-Minh-Sát vào Tứ diệu đế, dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Người đã hoàn thiện cái nhìn sâu sắc, bỏ qua tất cả phiền não và được giải thoát khỏi vòng luân hồi được gọi là một vị A La Hán. Khi còn sống, họ nhập vào một loại niết bàn có điều kiện, và khi chết, họ hoà nhập niết bàn hoàn toàn và thoát khỏi chu kỳ tái sinh.
Trong kinh Atthinukhopariyaayo Sutta của Tam Tạng Pali (Tipitaka – Samyutta Nikaya 35.152), đức Phật đã nói:
“Sau đó, các nhà sư, đây là tiêu chuẩn mà theo đó một tu sĩ ngoài đức tin, ngoài sự thuyết phục, ngoài khuynh hướng, ngoài những suy đoán hợp lý, ngoài sự thích thú trong quan điểm và lý thuyết, có thể khẳng định sự thành tựu giác ngộ: cuộc sống thánh thiện đã được hoàn thành, những gì cần thực hiện đã được thực hiện, không còn sống trên thế giới này nữa. “
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Đại thừa
Trong Phật giáo Đại Thừa, giác ngộ có liên quan đến sự hoàn thiện trí tuệ, hay trí tuệ Bát Nhã về Tánh không (sunyata). Đây là lời dạy nói về bản chất trống rỗng của tất cả các hiện tượng.
Tại sao nó lại quan trọng? Hầu hết chúng ta đều nhận thức những thứ xung quanh là độc lập và vĩnh cửu. Nhưng quan điểm này chỉ là một phép chiếu. Thay vào đó, thế giới hiện tượng là một liên kết không ngừng thay đổi của các nguyên nhân và các điều kiện (xem thêm Duyên khởi). Tất cả mọi thứ trống rỗng về bản chất, không có thật hay không thật. Sự nhận thức một cách toàn vẹn ánh mặt trời sẽ làm tan biến những cương quyết của sự bám víu gây ra đau khổ cho chúng ta.
Barbara O’Brien giải thích:
Phật giáo Đại Thừa dạy rằng, trong chính bản thân sâu thẳm của chúng ta, chúng ta đã hoàn thiện và giác ngộ. Tuy nhiên, chúng ta không hiểu chúng ta theo cách này. Thay vào đó, chúng ta bị cuốn hút bởi ảo tưởng về những lần xuất hiện và khái niệm bình thường để thấy mình là có giới hạn, không hoàn hảo và không đầy đủ.
Trước khi giác ngộ, chúng ta nhìn thế giới này qua tầm nhìn mơ màng, không thể hiểu bản chất thật của sự tồn tại là gì. Giống như người mù bẩm sinh hình dung thế giới qua các giác quan còn lại. Sau khi giác ngộ, chúng ta nhìn thấy rõ bản chất thật của thế giới giống như người mù giờ đây đã sáng mắt.
Trong truyền thống Đại Thừa, lý tưởng thực hành là Bồ tát, vị giác ngộ vẫn còn trong thế giới hiện tượng để hướng dẫn tất cả chúng sinh đến sự giác ngộ. Lý tưởng trọng tâm của Bồ tát là vị tha, nó phản ánh thực tế rằng không ai trong chúng ta tách rời và tự trị, mọi thứ đều liên quan đến nhau.
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Kim cương thừa
Là một chi nhánh của Phật giáo Đại thừa, các trường phái Mật Tông của Phật giáo Kim Cương Thừa cho rằng, giác ngộ có thể đến cùng một lúc trong một giai đoạn biến đổi. Điều này gắn liền với niềm tin vào những đam mê và những trở ngại của cuộc sống, hơn là trở ngại để vượt qua, có thể là nhiên liệu để biến đổi tâm thức bình thường thành tâm giác ngộ có thể xảy ra trong một khoảnh khắc, hoặc ít nhất trong một cuộc đời.
Chìa khóa cho việc thực hành này là niềm tin vào Phật tánh vốn có, giác ngộ là bản chất bẩm sinh bên trong chúng ta và đơn giản là chúng ta phải nhận ra nó. Tuy nhiên, niềm tin vào khả năng đạt được giác ngộ ngay lập tức không giống với hiện tượng Satori. Đối với hành giả Kim Cương Thừa, giác ngộ không phải là một cái nhìn thoáng qua cánh cửa. Giác ngộ là một trạng thái vĩnh viễn, khai sáng và Phật tánh.
Khi đạt được giác ngộ, đức Phật đã nói:
Thật tuyệt vời! Tất cả chúng sinh đều có trí huệ và đức hạnh của Tathāgata, nhưng họ không nhận ra vì họ mãi bám víu vào những tư tưởng và chấp trước ngớ ngẩn.
“Tathāgata” trong tiếng Phạn có nghĩa là các vị Như lai hay chư Phật. Vì vậy, điều cơ bản là mọi người đều có “Phật Tánh”, có thể đạt được giác ngộ và chấm dứt khổ đau.
Phật tánh là một phần cốt lõi của việc thực hành Phật giáo ở một số trường học Tây Tạng. Trong Phật giáo Đại thừa, Phật tánh là bản chất vốn có của tất cả chúng sinh. Bởi vì tất cả chúng sinh đều là Phật, nhiệm vụ không phải là để đạt được giác ngộ mà là nhận ra nó.
Kết luận
Người ta nói rằng, cố gắng giải thích về giác ngộ là vô hiệu, và tôi đồng ý điều đó. Rõ ràng tôi không phải là một người giác ngộ, mục đích của tôi là tổng hợp những góc nhìn khác nhau về chủ đề này để làm rõ ràng và dễ hiểu hơn một vài khái niệm cho những Phật tử như bạn và tôi.
Thầy Hsing Yun chia sẻ:
Giác ngộ phải trải qua kinh nghiệm trực tiếp và không phải là điều mà một người bình thường có thể suy đoán về nó. Những người tình cờ bắt chước những lời nói và hành động của các vị giác ngộ mà không thực hiện công việc để đạt được giác ngộ thì sẽ mời gọi sự nhạo báng của những người thực sự biết về nó.
Tôi cũng không biết điều gì sẽ xảy ra khi những vị giác ngộ rời khỏi thế giới này. Tôi không biết liệu họ có thoát khỏi sự tồn tại hay tồn tại ở một trạng thái nào đó. Bởi vì, Đức Phật không cung cấp cho chúng ta một câu trả lời rõ ràng.
Có thể những vị Tổ sư theo Phật giáo Đại Thừa đã đề xuất khái niệm Bồ Tát hoãn niết bàn vì lợi ích của chúng sinh hay các cõi tồn tại của chư Phật để giải quyết cho vấn đề này. Bồ Tát là những vị giác ngộ tuyệt vời, nhưng vì lòng bi mẫn bao la của họ, họ hy sinh sự giải phóng cho chính họ và làm việc để giải phóng người khác.
Hoa Sen Phật – Ảnh enlightenweight