Kinh A Di Đà, một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa, là lời chỉ dạy của Đức Phật Thích Ca về con đường tu tập để vãng sanh về thế giới Cực Lạc, nơi ngự trị của Đức Phật A Di Đà. Bài viết này sẽ đi sâu vào khám phá ý nghĩa, nội dung và lợi ích của Kinh A Di Đà, đồng thời hướng dẫn cách tụng kinh đúng cách để đạt được những công đức thù thắng.
Nội dung bài viết
1. Nguồn gốc kinh A Di Đà
Kinh A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha sutra) là một trong 3 bài kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Nội dung kinh mô tả về cõi Tây phương cực lạc (tiếng Phạn: Sukhavati), vùng đất thanh tịnh của Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha Buddha). Hai bài kinh khác trong bộ này là kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng Thọ.
Văn bản này có ảnh hưởng lớn trong Phật giáo Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Nó cũng được tôn kính bởi Jōdo Shinshū, một trong những tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Nhật Bản.
Kinh A Di Đà ra đời trong thời kỳ phát triển của tư tưởng Đại thừa. Được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán trong thời Diêu Tần bởi Pháp sư Cưu Ma La Thập (sinh năm 344, mất năm 413), người gốc Ấn Độ và là dịch giả Phật giáo nổi tiếng chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn ra tiếng Hán.
Bản kinh mà Phật tử Việt Nam thường tụng là bản dịch của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành dịch từ bản tiếng Hán của Ngài Cưu Ma La Thập.
2. Ý nghĩa của kinh A Di Đà
Phần lớn nội dung kinh A Di Đà mô tả buổi nói chuyện giữa Phật Thích Ca và Ngài Xá Lợi Phất về vùng đất Tây phương với nhiều điều kỳ diệu không thể tìm thấy ở bất cứ đâu trên trái đất này. Từ chim, cỏ, hoa lá cho đến những sinh vật cư ngụ ở đó đều biểu lộ sự vi diệu của giáo pháp. Văn bản cũng mô tả những gì Phật tử phải làm để được tái sinh ở đó.
Một số người cho rằng, kinh A Di Đà không phải do Phật Thích Ca nói mà lại ghi là “Kinh Phật Thuyết A Di Đà”! Họ nói rằng đây chỉ là một trong nhiều bài kinh “phương tiện” nhằm “thu hút” Phật tử với mong ước thoát khỏi cảnh khổ ở hiện tại mà phát tâm tu hành để tái sinh về cảnh giới cực lạc, an vui tràn đầy hạnh phúc.
Tuy nhiên, một số khác tin rằng kinh A Di Đà chuyển tải nội dung sâu xa hơn rất nhiều với những gì mà người thường có thể nghĩ đến, và đương nhiên họ tin rằng bài kinh này do Phật Thích Ca thuyết giảng. Nhận ra ý nghĩa cao thâm vi diệu này, Hòa Thượng Thích Trí Quảng chia sẻ:
“Niệm Phật không phải là kêu tên Phật. Đa số đều lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được.”
Niệm Phật là chỉ nơi tâm mà hành trì, chứ không qua trung gian phương tiện giúp chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Cõi tịnh độ của Phật A Di Đà được ẩn dụ cho sự vô thủy vô chung. Còn gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang, hay pháp giới tạng thân.
Nói chính xác hơn, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật nghĩa là:
- Vô lượng quang biểu tượng của trí tuệ giải thoát (Phật trí).
- Vô lượng thọ biểu tượng của đại định (tâm giải thoát), ở ngoài các vọng tưởng phân biệt.
Chung quy lại, ý nghĩa của kinh A Di Đà và toàn bộ tông chỉ của pháp môn niệm Phật là hướng tâm về sự tinh khiết của nguyên thủy. Không sinh, không diệt, không giới hạn, không phân biệt…bản chất nguyên thủy của tất cả chúng sinh hay còn được gọi là Phật tính, Niết bàn.
Khi nhận ra Phật tính rồi thì nơi mình ở sẽ là cực lạc – kim cương, châu báu, cảnh đẹp… tất cả chỉ mang tính biểu tượng đại diện cho “vẻ đẹp”, “giàu sang”…mà phàm phu thường ngộ nhận là hạnh phúc để họ dễ hình dung mà nương theo tu tập.
3. Kinh Phật thuyết A Di Đà
Hán dịch: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Ban Phiên Dịch Việt Ngữ, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành
3.1 Kỳ viên đại hội
Như vậy tôi nghe: Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị cùng ở chung, đều là bậc đại A La Hán, mọi người đều biết đến.
Đó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-Lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà, và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn..v..v.. vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.
3.2 Y báo chánh báo
Bấy giờ đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất: “Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở đó.
3.3 Y báo trang nghiêm
Này Xá-lợi-phất! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực Lạc.
Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẩn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực Lạc.
Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sức.
Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng có ánh sánh trắng, thơm ngát vi diệu.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trổi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm, thường dùng đãy y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình, ăn cơm, kinh hành.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này nữa Xá-lợi-phất, cõi nước kia thường có các loài chim mầu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng.
Những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng năm căn, năm lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo phần. Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho rằng chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi lại có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như thế.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
3.4 Chánh báo vô lượng thù thắng
Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Đà.
Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn đều là bực đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được, các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bực A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói.
Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được những điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được ở cùng một chỗ với các bậc Thượng thiện nhơn.
3.5 Nhơn hạnh vãng sanh
Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu.
Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bẩy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Này Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sinh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia.
3.6 Sáu phương Phật đồng khuyên tin
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm.
Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Tu Di Sơn.
Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ý của ông nghĩ sao? Tại sao gọi là “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.
Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
3.7 Thuyết kinh bất khó
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầy:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này.
Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó!
Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la… ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỉ tin nhận, lễ Phật mà lui ra.
Kết thúc Kinh Phật Thuyết A Di Đà.
4. Cách thức tụng kinh A Di Đà
4.1 Nghi thức sám hối trước khi tụng kinh
Trước khi tụng kinh thì Phật tử dùng ba nghiệp thân khẩu ý, thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối. Sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh.
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. [1 lạy]
[Quỳ xuống, tay cầm hương cúng dường phát nguyện]
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, các Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh Văn
Và cả thảy Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sinh
Đều phát lòng Bồ Đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô thượng.
[Cắm hương, lạy 1 lạy]
[Đứng chắp tay, xướng]
Sắc thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Đồng sanh nước An Lạc.
Án phạ nhựt ra vật [7 lần].
Chí tâm đảnh lễ:
Thường tịch quang tịnh độ
A Di Đà Như Lai
Pháp thân mầu thanh tịnh
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Thật báo trang nghiêm độ
A Di Đà Như Lai
Thân tướng hải vi trần
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Phương tiện thánh cư độ
A Di Đà Như Lai
Thân trang nghiêm giải thoát
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân căn giới Đại Thừa
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
A Di Đà Như Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y chánh
Khắp pháp giới Tôn Pháp. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
Quán Thế Aâm Bồ Tát
Thân tử kim muôn ức
Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
Đại Thế Chí Bồ tát
Thân trí sáng vô biên
Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ:
Cõi An Lạc phương Tây
Thanh tịnh đại hải chúng
Thân hai nghiêm: Phước, Trí
Khắp pháp giới Thánh Chúng. [1 lạy]
[Đứng chắp tay, nguyện:]
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên qui mạng sám hối. [1 lạy, qùy và chắp tay sám hối]
Chí tâm sám hối:
Đệ tử … và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên, nói không thể hết.
Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong, chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư không.
Con từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi.
Kinh rằng: Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cảø thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc.
Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các đức Phật và A Di Đà Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Đệ tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm tịnh độ, khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An dưỡng.
Nguyện đức A Di Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh độ, đến giờ lâm chung, thân an lành, niệm chánh vững vàng, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A Di Đà cùng các Thánh Chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi quy mạng đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Đà Như Lai, biến pháp giới Tam Bảo. [1 lạy] [Lạy xong bắt đầu nghi thức tụng kinh.]
4.2 Nghi thức tụng kinh
Bài tán lư hương:
Lư hương vừa ngút chiên đàn
Khói thơm ngào ngạt muông ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát. [3 lần]
Chơn ngôn tịnh pháp giới:
Án Lam [7 lần]
Chơn ngôn tịnh ba nghiệp:
Tu rị Tu rị ma ha Tu rị Tu rị ta bà ha. [3 lần]
Chơn ngôn phổ cúng dường:
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. [3 lần]
Bài văn phát nguyện:
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo [3 lần]
Lạy đấng tam giới tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh A Di Đà
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cưú khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật [3 lần]
Bài kệ khai kinh A Di Đà:
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha tát [3 lần]
Sau khi đọc bài kệ khai kinh thì quý Phật tử bắt đầu tụng bài kinh Phật thuyết A Di Đà đã được chia sẻ bên trên.
Bồ khuyết chơn ngôn:
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Aùn, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đeá, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tóa ha [7 lần]
Nam mô Hoa-Tạng Giáo Chủ Tỳ-Lô Giá-Na Phật [3 lần]
Bồ khuyết tâm kinh:
Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh
Quán-Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức: vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc a-nậu đa-la tam-miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất hư.
Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết:
“Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la- tăng yếr-đế, bồ đề tát-bà-ha”. [3 lần]
Vãng sanh quyết định chơn ngôn:
Nam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. [3 lần]
Khể thủ Tây Phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh Tịnh Độ. Duy nguyện Từ phụ A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang Trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật [niệm 10, 20, 30 câu, tùy ý]
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát [10 niệm]
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát [10 niệm]
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát [10 niệm]
Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ Tát. [10 niệm]
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh Độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cọng thành Phật đạo.
Tự quy y:
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm [1 lạy]
Tự quy Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải [1 lạy]
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. [1 lạy]
Hồi hướng:
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.
5. 10 điều tâm niệm sau khi thực hiện xong nghi thức tụng kinh A Di Đà
- Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh.
- Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dạy.
- Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
- Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
- Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
- Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
- Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
- Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ.
- Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
- Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa xả.
Bởi vậy Đức Phật dạy:
- Lấy bệnh khổ làm thuốc thần
- Lấy hoạn nạn làm giải thoát
- Lấy khúc mắc làm thú vị
- Lấy ma quân làm bạn đạo
- Lấy khó khăn làm thích thú
- Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ
- Lấy người chống đối làm nơi gia du
- Coi thi ân như đôi dép bỏ
- Lây sự xả lợi làm vinh hoa
- Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong sự trở ngại, như Ương-Quật hành hung, Đề-Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại laị làm sự tác thành cho ta?
Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trởi ngại, nên khi trở ngại áp đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào!
6. Kết lại về Kinh A Di Đà
Kinh A Di Đà là bộ kinh quý báu, chứa đựng những lời dạy vô cùng sâu sắc của Đức Phật Thích Ca về con đường tu tập giải thoát. Việc tụng Kinh A Di Đà không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân người tu tập mà còn góp phần lan tỏa những giá trị tốt đẹp của Phật giáo đến với mọi người.