Dường như Quan Thế Âm là vị Bồ tát được tôn kính nhất trong các truyền thống Phật giáo. Ngài tượng trưng cho lòng tư bi vĩ đại của chư Phật. Vì vậy, hàng triệu Phật tử trên khắp thế giới thường xuyên cầu nguyện Ngài để mong được gia hộ và mang lại bình an trong cuộc sống.
Mẹ Quan Âm là tên gọi thân thương của nhiều Phật tử khi nói về vị Bồ tát từ bi này. Cùng Hoa Sen Phật tìm hiểu về vị Bồ tát phổ biến nhất này nhé!
Nội dung bài viết
Quan Thế Âm Bồ tát là ai?
Quan Thế Âm Bồ tát (tiếng Phạn: Avalokitesvara Bodhisattva) là một vị Bồ tát thể hiện lòng từ bi của tất cả chư Phật. Ngài là một trong những vị Bồ Tát được tôn kính rộng rãi trong Phật Giáo Đại Thừa. Ở Trung Quốc và những nước ảnh hưởng nền văn hoá này, Quan Thế Âm thường được miêu tả dưới dạng nữ gọi là Guan Yin.
Bồ tát Quan Thế Âm còn được biết với tên gọi khác là Quán Thế Âm. Từ “Quán” ở đây có nghĩa là “quán thấy” tất cả chân lý của vũ trụ thông qua phép “nhĩ căn viên thông”. Ngài nghe thông suốt hết thảy âm thanh của vũ trụ, những lời than khóc và cầu nguyện của chúng sinh. Vì vậy, với lòng từ bi vô hạn, Bồ tát Quán Thế Âm nguyện không nhập Niết bàn khi vẫn còn chúng sinh đau khổ và lầm than.
Ngoài ra, Quan Thế Âm còn được gọi là Padmapani (“Người giữ hoa sen”) hay Lokaczevara (“Chúa tể của thế giới”). Trong tiếng Tây Tạng, Bồ Tát Quan Thế Âm được gọi là Chenrezig, và được cho là nhập thể vào Đức Đạt Lai Lạt Ma, Karmapa và các vị Lạt ma khác.
Quan Thế Âm Bồ tát là Bồ tát tuyên trợ đắc lực của Phật A Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc, Ngài thể hiện lòng Bi, một trong hai dạng Phật tính. Vì vậy, danh hiệu của Ngài thường kèm theo từ Đại Bi. Dạng kia của Phật tính là trí tuệ được Bồ Tát Đại Thế Chí thể hiện, bên tay phải của Phật A Di Đà.
Với lòng từ bi vô hạn, Quan Thế Âm thể hiện sức mạnh huyền diệu cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến mình lúc gặp hiểm nguy. Trong nhân gian, Quan Thế Âm là vị bảo hộ tránh khỏi tai họa và hay được những người phụ nữ không con cầu tự.
Quan Thế Âm Bồ tát là nam hay nữ?
Khi tu tập và thực hành Phật pháp, Phật tử không nên chấp vào hình tướng hay khả năng cứu độ mà vị Phật hay vị Bồ tát nào đó mang lại. Vì mỗi vị Phật hay Bồ tát đều đại diện cho những phẩm chất cao quý mà Phật tử phải tinh tấn tu tập và thực hành để giác ngộ.
Bằng phương tiện thiện xảo, các vị Phật và Bồ tát đã hóa thân nhiều hình dạng khác nhau để phổ độ chúng sinh tùy theo căn cơ mỗi người. Tại Việt Nam và các nước Đông Á thì Bồ tát Quan Thế Âm thường được minh họa dưới hình dạng người phụ nữ xinh đẹp và giàu lòng từ bi. Còn trong truyền thống Phật giáo ở Tây Tạng và Nepal thì Bồ tát Quan Âm được minh họa dưới hình dạng nam giới.
Khi Phật giáo được truyền sang Trung Quốc, các vị tổ sư đã dùng phương tiện thiện xảo cải biến hình tượng Bồ tát Quan Thế Âm sang nữ giới để phù hợp hơn với nền văn hóa. Với hạnh ngộ từ bi quảng đại, Ngài được xem như “Mẹ hiền Quan Thế Âm Bồ tát của chúng sinh”, người luôn sẵn sàng dang rộng vòng tay để cứu khổ cứu nạn khi chúng sinh cần tới.
5 Phép thần thông của Bồ tát Quan Thế Âm
Theo kinh điển, Quan Thế Âm Bồ tát có 5 thần thông (hay 5 thứ quán) chính hỗ trợ Ngài trong việc phổ độ chúng sinh. Năm phép thần thông đó là:
- Chân quán: Phát huy hết khả năng của 6 giác quan, nên Ngài có thể cảm nhận và quán thấy sự thật mọi đau khổ của chúng sinh.
- Thanh tịnh quán: Khả năng quán chiếu sự thanh tịnh. Sự quán chiếu trong suốt, sự quán chiếu không còn bị vô minh, khát ái, chấp thủ và nghiệp hữu làm vẩn đục. Và thanh tịnh quán là quán chiếu để thấy rõ bản thể vắng lặng ở nơi mọi sự hiện hữu.
- Quảng đại trí tuệ quán: Khả năng quán chiếu bằng trí tuệ rộng lớn, không những thấy tự tánh của năm uẩn là không, mà còn thấy tự thân của mỗi uẩn cũng đều là không, vốn không có tự tánh.
- Từ quán: Khả năng quán chiếu để thực hành hạnh nguyện thương yêu rộng lớn, toàn diện và cùng khắp, đem lại sự an lạc cho hết thảy chúng sanh.
- Bi quán: Bi Quán là khả năng quán chiếu, để thấy rõ thể tánh chơn như giữa chủ thể cứu độ và đối tượng được cứu độ không phải là hai, chúng thiệp nhập vào nhau và nhất thể.
Truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện ở Việt Nam
Ở Việt Nam ta, Quan Thế Âm cũng được biết đến với truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện. Đây là một bài thơ được viết theo thể lục bát nói về một vị công chúa đi xuất gia nhằm hóa độ cho vua cha, người đã gây ra nhiều tội ác.
Vị vua cha này mong cầu sinh được hoàng tử để nối dõi nhưng lại sinh ra một cô công chúa thứ 3 nên ông rất oán hận. Khác hẳn hai người chị, nàng công chúa này ngày đêm học Phật và có lòng quy y Phật mà quyết không lấy chồng.
Sử dụng nhiều mưu kế mà vua cha vẫn không thể ép công chúa hoàn tục nên ông đã quyết định xử trảm con gái mình. Tuy nhiên, ngay lúc đó bỗng xuất hiện một con hổ trắng xông ra cõng công chúa mang đến chùa Hương. Kể từ đó, nàng công chúa tu tập tinh tấn và lấy Pháp danh là Diệu Thiện.
Về phần vua cha, ông bị mắc bệnh hủi không thể chữa được, mắt bị mù và cơ thể rệu rã. Nghe tin cha mình bị bạo bệnh, Diệu Thiện sao khi tu hành đắc đạo đã hy sinh hai mắt cho cha, cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật.
Nguồn gốc của Quan Thế Âm Bồ tát trong kinh điển
Với lời thề nguyện vĩ đại cũng như công đức hóa độ chúng sinh của Ngài, rất nhiều kinh điển đã đề cập đến Bồ tát Quan Thế Âm như một ví dụ điển hình về lòng từ bi và sự tinh tấn trong tu tập. Một số kinh điển đó là: Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, kinh Vô lượng Thọ, Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Đại Bát Nhã ba la mật đa kinh, Ngũ Bách Danh kinh, Đại Phương Quảng Như Lai tạng kinh…
Trong Phật giáo Đại thừa
Theo truyền thống Đại Thừa, Quan Thế Âm Bồ Tát là người đã thực hiện một lời thề tuyệt vời để lắng nghe những lời cầu nguyện của tất cả chúng sinh trong thời điểm khó khăn, và hoãn việc nhập niết bàn cho đến khi Ngài hỗ trợ chúng sanh trên trái đất trong việc đạt được giác ngộ.
Trong Kinh điển Đại Thừa, Quán Thế Âm xuất hiện trong Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra – Là đệ tử của vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni) và Kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra), đặc biệt là chương 25, mà đôi khi được gọi là Kinh Quán Thế Âm.
Đặc biệt, trong kinh Bi Hoa có đoạn thể hiện lòng từ bi vĩ đại của Bồ tát Quan Thế Âm:
Về thuở quá khứ lâu xa về trước, Đức Quán Thế Âm là một vị thái tử tên là Bất Huyền, con của vua Vô Tránh Niệm, thời ấy có Đức Phật ra đời tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm hết lòng sùng bái đạo Phật. Vua liền sắm đủ lễ vật quý báu dâng cúng Phật và chư Tăng trong ba tháng hạ, vua cũng khuyến khích các quan văn, vương tử, vương tôn, triều đình quyến thuộc theo vua cúng dường.
Thái tử Bất Huyền vâng lệnh vua cha, cũng dâng cúng đủ các trân cam mỹ vị, hết lòng thành kính Đức Phật và chúng Tăng trong ba tháng như vậy. Lúc ấy, có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng, khuyên thái tử Bất Huyền nên lập nguyện nhờ công đức cúng dường này mà cầu quả báu Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả ở cõi trời, cõi người này, vì quả báu phước cõi ấy là phước báu hữu hạn, dù chúng ta có lên trời rồi, đến khi hết phước cũng phải sa đọa. Sao bằng đem công đức cúng dường này hướng về quả báu vô thượng bồ đề mới là phước báu chân thật vĩnh hằng.
Nghe đại thần khuyên như vậy, Thái tử liền đến trước Phật Bảo Tạng phát đại thệ nguyện: “nguyện xin nhờ công đức cúng dường này cầu quả vô thượng bồ đề. Con nguyện xin trong lúc tu đạo tự lợi, lợi tha, nếu có chúng sinh nào lâm vào tai nạn, không thể tự cứu chữa được, không nơi nương nhờ, hễ niệm đến danh hệu con, con liền đủ sức thần thông đến cứu độ ngay. Nếu lời nguyện ấy không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát đại thệ nguyện tu đạo Bồ Tát cho đến cùng tận đời vị lai, trãi qua vô số kiếp, khi phụ vương con (vua Vô Tránh Niệm) thành Phật hiệu A Di Đà ở thế giới Cực Lạc thì con sẽ làm thị giả hầu hạ Ngài cho đến khi Chánh Pháp Ngài tận diệt con mới chứng quả Bồ đề. Con nguyện xin Đức Thế Tôn và mười phương chư Phật thụ ký cho con như vậy”.
Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho thái tử và nói rằng: “Do quán sát chúng sinh trong vô số thế giới đều vì tội nghiệp mà phải chịu quả báu đau khổ nên ngươi phát bi tâm, ngươi lại nguyện quan sát nghe được tiêng kêu cầu đau khổ của thế gian để đến cứu độ. Nay ta thọ ký cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm. Ngươi sẽ giáo hoá cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi khổ não, trong khi tu đạo, ngươi phải làm mọi Phật sự để lợi ích chúng sinh”.
Do đó, sau khi Phật A Di Đà nhập diệt rồi, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu, càng thêm tốt đẹp hơn trước nữa. Khi ấy, đang lúc ban đêm, trong khoảnh khắc, tất cả mọi thứ trang nghiêm đều hiện ra giữa không trung, tức thì ngươi thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp. Sau khi ngươi diệt độ rồi, chánh pháp sẽ còn lưu truyền lại sáu mươi ba ức kiếp nữa”.
Thái tử nghe Phật thọ ký rồi, lòng vô cùng hoan hỷ và bạch rằng: “như lời nguyện của con được hoàn toàn viên mãn thì đối với con còn hạnh phúc nào bằng. Nay con xin nguyện mười phương chư Phật cũng thọ ký cho con như thế, làm cho tất cả thế giới đều rung chuyển như tiếng âm nhạc, ai nghe cũng được giải thoát”. Thái tử bạch rồi, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.
Bấy giờ, các thế giới tự nhiên rung chuyển, phát ra tiếng hòa nhã như âm nhạc, ai nghe cũng thân tâm thanh tịnh, dục vọng không còn. Tiếp đó là các Đức Phật trong mười phương thế giới cũng đồng thanh thọ ký cho Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Trong thời kiếp Thiên Trú, ở thế giới Tân Đề Lam có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời, thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm phát tâm cúng Phật và chúng Tăng ba tháng. Nhờ công đức ấy, trãi qua vô số kiếp về sau, thái tử sẽ thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai” ở thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu.
Nghe chư Phật thọ ký xong, thái tử hoan hỷ vô cùng. Từ đó, trãi qua vô số kiếp về sau, Ngài tinh tấn tu đạo Bồ Tát, cứu độ tất cả chúng sinh, không bao giờ quên đại bi tâm của Ngài.
Quan Thế Âm là Bồ tát của lòng từ bi, có sáu hình thức khác nhau trong truyền thống Đại Thừa. “Đại bi, lòng từ bi vĩ đại, sự dũng cảm của loài sư tử, ánh sáng phổ quát, vị lãnh đạo giữa các vị thần và loài người, và vị đại diện cao cả của Brahman”.
Trong Phật giáo Kim cương thừa
Trong truyền thống Kim Cương Thừa Tây Tạng, Quan Thế Âm được xem là phát sinh từ hai nguồn. Một là nguồn tương đối, nơi mà kiếp trước (kalpa), một tu sĩ Phật giáo với lòng từ bi vĩ đại đã chuyển đổi thành Quan Thế Âm trong kiếp này.
Với nguồn gốc tối hậu cho rằng, Quán Thế Âm Bồ Tát là biểu hiện phổ biến của lòng từ bi, nên Ngài được xem là một “phương tiện nhân cách” rất thực tế cho chúng ta noi theo, phục vụ để mang lại một sự hiểu biết tốt hơn về cuộc sống, về tình yêu thương giữa con người với con người.
Trong Phật giáo Nguyên thủy
Mặc dù Phật giáo Nguyên Thuỷ (Theravada Buddhism) không thờ bất kỳ vị Bồ tát nào của Đại Thừa, nhưng Quán Thế Âm lại phổ biến ở Miến Điện, nơi Ngài được gọi là Lokanat, và Thái Lan, nơi Ngài được gọi là Lokesvara.
Góc nhìn các nhà nghiên cứu Phật giáo phương Tây về Quan Thế Âm
Các học giả phương Tây đã không đạt được sự đồng thuận về nguồn gốc và sự tôn kính đối với Quan Thế Âm Bồ Tát. Một số người cho rằng Quan Thế Âm, cùng với nhiều vị Bồ tát và chư Phật khác trong Phật giáo là một hình thức vay mượn của Phật giáo Đại Thừa đối với nhiều vị thần trong Ấn Độ giáo.
Họ cho rằng, các vị Bồ tát và rất nhiều chư Phật, đã tạo ra một sự mâu thuẫn đối với học thuyết Vô ngã của Đức Phật, và là một sự phát triển dựa theo ý tưởng của Brahman (Đại ngã – một khái niệm về một vị thần tối thượng trong Ấn Độ giáo): Brahma (một vị thần trong đạo Hindu) hay Lokanātha, “Chúa tể của thế giới”.
Ý nghĩa hình tượng của Bồ tát Quan Thế Âm
Trong các loại tranh tượng về Quan Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu.
Trên đầu có khi là tượng A-di-đà, có khi thì thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì vậy nên Quan Thế Âm cũng có tên là Liên Hoa Thủ (người cầm hoa sen) hay nhành dương liễu và một bình nước Cam Lộ. Số tay của Bồ Tát biểu hiện khả năng cứu độ chúng sinh trong mọi tình huống.
Quan Thế Âm Bồ Tát có “hào quang” hình tròn trên đầu cho thấy sự vô thường và vĩ đại nhất. Điều này có thể cho thấy tầm quan trọng của sự vĩ đại và sự cống hiến của Quan Thế Âm đối với thế giới. Hình ảnh này sẽ được sử dụng chủ yếu để thờ phượng và nhớ đến Bồ tát vĩ đại đang chờ sự chứng ngộ của Ngài cho đến khi mọi người trên thế giới đã đạt tới Niết bàn.
Theo nhà Phật, ý nghĩa của hình tượng Quan Thế Âm là lòng từ bi vĩ đại, một lòng nhất tâm hướng Phật để cứu khổ cứu nạn chúng sinh lầm than, đem lại bình an cho mọi gia đình. Tượng Bồ tát Quan Âm được tạo tác bằng nhiều chất liệu khác nhau như: đồng, gỗ, thạch cao,… tất cả đều thể hiện sự tự tại, nét mặt từ bi, hiền hậu, khi nhìn vào có cảm giác dễ chịu và an lành.
Phật tử ngày nay tôn thờ hình tượng Phật Bà Quan Âm với mục đích rèn luyện và phát huy tinh thần từ bi, nhẫn nhục của Ngài. Đây là những phẩm chất thiết yếu trong cuộc sống hiện tại, khi mà mọi thứ trở nên hỗn loạn và tình yêu thương của con người dần bị mai một.
Lời dạy của Mẹ Quan Thế Âm Bồ tát
Mẹ Quan Thế Âm dạy chúng ta biểu hiện lòng từ bi đối với tất cả mọi người. Ở Tây Tạng, Ngài được biết đến như là Chenrezig, và Đức Đạt Lai Lạt Ma được cho là hiện thân của Ngài.
Đây là một phần quan trọng cho ý tưởng Quán Thế Âm ảnh hưởng đến nền văn hoá và niềm tin của Phật giáo bởi vì ông đã thể hiện mình như một Bồ tát đại diện cho chính tôn giáo và giúp mọi người hiểu được những ý nghĩa.
Mẹ Quan Thế Âm cho chúng ta một trong những ý tưởng lớn nhất của công đức được thể hiện trong truyền thống Phật giáo đó là từ bi. Nếu không có từ bi, người ta không thể có khả năng theo chân lý Bồ tát và làm thế nào để sống cuộc sống của họ.
Quan Thế Âm Bồ tát dạy chúng ta sự kiên nhẫn cũng như lòng từ bi, Ngài đã từ bỏ cõi Phật và ở lại Vòng Luân Hồi cho đến khi Ngài giúp mọi sinh vật trên trái đất đạt được Niết bàn. Hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn chúng sinh khắp mười phương của Ngài là vô lượng vô biên.
Ngày vía Quan Thế Âm Bồ tát
Trong một năm sẽ có 3 ngày vía Bồ tát Quan Thế Âm, đó là:
- Ngày 19 tháng 02 âm lịch là ngày Phật Quan Thế Âm Đảng Sinh
- Ngày 19 tháng 06 âm lịch là ngày Phật Quan Thế Âm thành đạo
- Ngày 19 tháng 09 âm lịch là ngày Phật Quan Thế Âm xuất gia
Vào những ngày vía Phật bà Quan Âm, Phật tử khắp nơi trên thế giới đều một lòng thành kính dâng hương, hoa quả và tổ chức các lễ cúng long trọng. Họ ăn chay, phóng sinh và tụng Chú Đại Bi để cầu nguyện sự phù hộ độ trì của Mẹ Quan Thế Âm.
Thần chú cầu nguyện Bồ tát Quan Thế Âm
Nhạc tụng thần chú Om Mani Padme Hum của Bồ tát Quan Thế Âm
Thần chú Om Mani Padme Hum là một trong những thần chú Phật giáo phổ biến nhất. Thần chú thường được dịch là “viên ngọc trong hoa sen”. Sự giải thích mang tính tượng trưng của thần chú là sự kết hợp của những phẩm chất trí tuệ (hoa sen) và từ bi (viên ngọc). Câu thần chú này được tìm thấy trong Bát Nhã Tâm Kinh (The Heart Sutra) – một trong những kinh điển quan trọng nhất của Phật Giáo Đại Thừa.
Thần chú này cũng được khắc vào đá để đạt được công đức, như được thấy trên đá Mani ở Tây Tạng. “Om Mani Padme Hum” cũng được ghi văn bản trên bánh xe Mani và sau đó được quay để đạt được mong ước, việc quay những bánh xe này được cho là tích lũy được cùng một số lượng công đức như thể một đã lặp đi lặp lại các thần chú mình.
Cách tốt nhất thể hiện sự tôn kính của mình với Quan Thế Âm Bồ Tát là niệm thần chú Om Mani Padme Hum hoặc đon giản là niệm danh hiệu của Ngài.
Lợi ích khi cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát là vô biên, nhiều Phật tử thường xuyên cầu nguyện danh hiệu Bồ tát khi đi du lịch xa nhà, khi gặp chuyện trắc trở, bệnh tật hay tai nạn, hoặc đơn giản là cầu nguyện cho gia đình bình an trong cuộc sống phức tạp và đau khổ này.
Tóm lại, Quan Thế Âm là vị Bồ tát phổ độ chúng sinh, trong hầu hết các hộ gia đình Phật tử, người ta có thể tìm thấy bức tượng hoặc hình ảnh của Ngài. Điều này thật đúng khi chúng ta có sự tham khảo trực quan để giúp đạt được một tâm trí tĩnh lặng trong cuộc hành trình tâm linh của mình.
Một số hình ảnh đẹp của Quan Thế Âm Bồ tát
Trên đây là đầy đủ thông tin hữu ích về Bồ tát Quan Thế Âm mà bạn có thể tham khảo. Qua đó, HoaSenPhat hy vọng bạn có thể hiểu rõ hơn về vị Bồ tát giàu lòng từ bi, nguyện ở luân hồi để cứu khổ cứu nạn hết thẩy chúng sinh.