Phật giáo Đại Thừa là gì? Phật giáo Đại Thừa (tiếng Anh: Mahayana Buddhism) được gọi là “Cỗ xe lớn” (Great Vehicle), là hình thức Phật giáo nổi bật ở Bắc Á, bao gồm Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng, Hàn Quốc và Nhật Bản nên còn được gọi là Phật giáo Bắc Tông.
Xuất phát từ những lẩn tránh về các học thuyết và các quy tắc tu viện trong Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất TCN, Đại Thừa coi mình là phiên bản chính xác nhất của Phật pháp. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguồn gốc, quan điểm và các tông phái trong Phật giáo Đại thừa.
Nội dung bài viết
Phật giáo Đại Thừa xuất hiện khi nào?
Nguồn gốc của Phật Giáo Đại Thừa vẫn còn mơ hồ, ngày và vị trí của sự xuất hiện không được biết cụ thể, phong trào có nhiều khả năng hình thành theo thời gian và ở nhiều nơi. Kinh điển sớm nhất của Phật giáo Đại Thừa là Bát Nhã Tâm Kinh trong kinh Đại Thừa, kinh điển được biên soạn lần đầu tiên sau khi Ðức Phật qua đời 5 thế kỷ.
Như trong các văn kiện Phật giáo tiên phong trước đây, những kinh điển này gần như chắc chắn được viết bởi các nhà sư, trình bày các ý tưởng sáng tạo của phong trào dưới hình thức những bài thuyết pháp được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển giao.
Những dấu vết sớm nhất của các tư tưởng Đại Thừa phát sinh khi việc bất đồng giữa các chư tăng tại hội đồng thứ 2 Vaishali. Hội đồng này được kêu gọi để lên án những hành vi nhất định của một số nhà sư đã vi phạm bộ luật về đạo luật của Vinaya. Mặc dù phần lớn các nhà sư đã thành công trong việc xua đuổi các nhà sư phạm sai lầm, nhưng các nhà sư còn lại đã tranh chấp các quy tắc và một số khía cạnh của Phật Pháp. Điều này dẫn đến sự phân chia Phật giáo thành 2 hệ tư tưởng khác nhau.
Một nhóm chống lại bất cứ thay đổi nào, được gọi là Sthaviravadins (Phật giáo Nguyên Thủy, Theravadins) nói rằng, tất cả con người phải phấn đấu để trở thành A-La-Hán, giải thoát khỏi chu kỳ Tái sinh (cõi Ta-bà, Samsara) để lên cõi Niết bàn.
Họ cho rằng, chư Phật là những người đàn ông – tinh khiết và đơn giản, từ chối bất kỳ khái niệm nào về tính siêu việt của họ. Nhóm khác, đa số, được biết đến như là Mahasanghikas, có nghĩa là những nhà sư vĩ đại. Giống như Sthaviravadins, họ chấp nhận các giáo lý cơ bản của Đức Phật như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, thuyết Vô ngã (Anatta)… Luật nhân quả.
Họ khác nhau trong việc tin rằng, chư Phật là siêu phàm, cuộc sống và quyền hạn của họ là không giới hạn. Họ cũng tin rằng, bản chất ban đầu của tâm trí là tinh khiết và nó bị ô nhiễm khi nó bị nhuộm bởi tham ái và phiền não. Chính Mahasanghikas đã xây dựng và phát triển Phật giáo Đại Thừa.
Phật giáo Việt Nam là Đại thừa hay Tiểu thừa?
Xét về mặt địa lý, phật giáo Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ Tây Tạng, Việt Nam được gọi là Phật giáo Đại Thừa truyền theo văn hệ Sankrit với Trung Quốc là trung tâm.
Quan điểm của Phật giáo Đại thừa
Lời giảng dạy quan trọng nhất của Đại Thừa là lòng từ bi vĩ đại, một thành phần vốn có của sự giác ngộ được thể hiện qua hình tượng Bồ tát (những vị giác ngộ), Người đã trì hoãn Niết bàn (giác ngộ cuối cùng) để giúp đỡ và hướng dẫn chúng sanh vẫn đang phải chịu đựng đau khổ trong vòng luân hồi. Họ dùng cái mà Đại Thừa gọi là “phương tiện khéo léo” để biết được năng lực tinh thần và tình cảm cụ thể của mỗi cá nhân, từ đó đưa ra hướng dẫn phù hợp với những năng lực đó.
Đại Thừa dạy rằng, bất cứ ai cũng có thể khao khát đạt được giác ngộ và trở thành Bồ tát. Đối với đạo Phật Đại Thừa, giác ngộ bao gồm sự hiểu biết bản chất thực sự của thực tại và tình thương vô biên.
Hai trường phái Nguyên Thủy và Đại Thừa có cái nhìn khác nhau về học thuyết Vô ngã. Tư tưởng Đại Thừa mở rộng ý tưởng này đến tất cả mọi thứ, rằng không gì có bản chất và sự tồn tại của mỗi vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những thứ khác.
Bồ tát muốn tìm hiểu thực tại này thông qua sự khôn ngoan (prajna) và thực hiện nó thông qua từ bi (karuna). Họ nhận ra rằng, không một cá nhân nào có “cái tôi”, không thể có sự khác biệt thực sự giữa bản thân và người khác, và do đó sự giải phóng của họ không khác biệt gì với sự giải phóng của tất cả chúng sinh. “Vô ngã” theo Đại Thừa có nghĩa là hiểu được sự vắng mặt của bản ngã hay bản tính trong mọi vật và con người.
Phật giáo Nguyên Thủy (Tiểu thừa) và Phật giáo Đại Thừa khác nhau về quan điểm của họ về mục đích cuối cùng của cuộc sống và cách mà nó có thể đạt được. Phật giáo Nam Tông cố gắng trở thành các vị A La Hán, hoặc những vị thánh hoàn hảo đã đạt được giác ngộ lên cõi Niết bàn. Trong khi những người theo Phật giáo Bắc Tông không hi vọng trở thành A La Hán, mà là những vị Bồ tát, những người đã giác ngộ nhưng trì hoãn việc lên cõi Niết bàn để giúp người khác đạt được nó, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm.
Phật giáo Đại Thừa dạy rằng, giác ngộ có thể đạt được trong một đời duy nhất, và điều này có thể được thực hiện ngay cả bởi một người bình thường.
Những người theo Phật giáo Đại Thừa, có lẽ đã sai lầm khi khẳng định lý tưởng A La Hán của Phật giáo Nguyên Thủy là ích kỷ vì nó chỉ quan tâm đến sự giải phóng cho chính mình.
Các vị A La Hán, mặc dù không có trí tuệ cao như của một vị Phật, nhưng cũng phải vượt qua ý tưởng bản thân và lòng tham để giác ngộ, vì vậy một sự cáo buộc dường như không có lý. Những người theo Phật giáo Nam Tông cũng cho rằng, đạt được Phật quả là lý tưởng cao nhất nhưng nó là khó khăn và vượt quá khả năng của hầu hết mọi người.
Một người đi theo con đường Bồ Tát phải đạt được 6 sự hoàn hảo: ban cho hay rộng lượng, đạo đức hay hành vi tốt, kiên nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Các tông phái trong Phật giáo Đại thừa
1. Pháp tướng tông
Tông phái này phát khởi từ ba vị Vô Trước, Thế Thân và Hộ Pháp, lấy Thành duy thức luận làm gốc, cho rằng vạn pháp đều do thức biến ra. Thức có tám loại là: nhãn thức, nhĩ thức, vị thức (hay tỉ thức), thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức. Trong tám thức ấy, a-lại-da thức là căn bản.
A-lại-da thức còn gọi là Tạng thức, bao tàng hết các chủng tử, rồi do những chủng tử ấy mà phát sinh ra vạn tượng. Vạn tượng tan thì các chủng tử lại mang nghiệp trở về a-lại-da thức. Chủng tử lại vì nhân duyên mà sinh hóa mãi. Vậy nhân duyên là nhân duyên của các chủng tử.
A-lại-da thức thì chứa hết thảy các chủng tử để sinh khởi nhất thiết chư pháp. Như thế là vạn pháp do thức mà biến hiện ra, cho nên nói rằng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Ngài Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ theo học với ngài Giới Hiền, rồi đem Pháp tướng tôngvề truyền ở Trung Hoa.
2. Tam luận tông
Tông này lấy Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ-tát Long Thụ và bộ Bách luận của Đề-bà làm căn bản, nên mới gọi là Tam luận. Tam luận tông cho rằng hết thảy vạn hữu trong hiện tượng giới đều sanh diệt vô thường. Đã sanh diệt vô thường là không có tự tính, chỉ bởi nhân duyên làm mê hoặc mà biến hóa ra vạn hữu. Kẻ phàm tục vì vọng kiến cho nên mới chấp lấy cái có tạm bợ ấy.
Bậc chân trí thì không nhận cái tạm có mà thấy rằng hết thảy đều là không. Các pháp tuy là hiện hữu nhưng không phải là thường có. Có mà không phải là thường có tức là chỉ tạm có. Tạm có nên tuy là có mà không phải là có. Có mà không phải là thật có thì cũng chẳng khác gì không.
Vậy nên các pháp tuy là đều có, nhưng thật tướng là không. Lý thể của chân như tuy là không tịch, bất sanh bất diệt, nhưng bởi nó sanh ra các pháp, cho nên nó là nguồn gốc của cái tạm có. Đã là nguồn gốc, thì lý thể của chân như là không. Như thế, chân như là không mà không phải thật là không, cho nên đối với có không khác gì. Vì thế chân như tuy là không tịch mà rõ ràng là có.
Có và không, không và có, thật chẳng khác nhau. Có là có do nơi không; không là không do nơi có. Có và không hai bên toàn nhiên hòa hợp với nhau. Thấy rõ chỗ ấy là Trung đạo, là không vướng mắc vào cả có lẫn không. Vì sự nhận thức của ta sai lầm, mà thành ra có không và có.
Vượt lên trên sự nhận thức thì mới đạt được cái thực tại bất khả tư nghị. Sự nhận thức của ta chỉ nhận thức được trong phạm vi hiện tượng mà thôi, không thể nhận thức được thực tại. Muốn đạt tới thực tại thì phải nhờ đến trực giác mới được. Tam luận tông lấy kinh Bát-nhã làm gốc, cho nên còn gọi là Bát-nhã tông, khi đối với Pháp tướng tông thì gọi là Tánh tông hay là Không tông.
3. Thiên thai tông
Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do thiền sư Tuệ Văn đời Tần, Tùy lập ra, dựa theo ý nghĩa sách Trí Độ luận và kinh Pháp Hoa làm gốc. Cho nên còn gọi là Pháp Hoa tông. Thiên thai tông chủ trương thuyết “chư pháp duy nhất tâm”. Tâm ấy tức là chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ-tát và Phật. Sanh tử cũng ở nơi tâm ấy, Niết-bàn cũng ở nơi tâm ấy.
Thiền sư Tuệ Văn chủ lấy Trung đạo mà luận cái tâm và lập ra thuyết “nhất tâm tam quán”. Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán. Trong Không quán có Giả quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là không. Trong Giả quán có Không quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là giả.
Trung quán là dung nạp cả không và giả. Chân như với tâm và vật quan hệ với nhau như nước với sóng. Ngoài nước không có sóng, ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật.
Thiên thai tông lấy hiện tại mà tìm chỗ lý tưởng. Thiện ác chân vọng đối với tông này chỉ là một sự hoạt động của thực tại. Vì thế cho nên không cưỡng cầu giải thoát ra ngoài hiện tại giới sanh diệt vô thường. Trong hiện tượng giới gồm cả hai tính thiện và ác.
Thiện hay ác cũng chỉ do một tâm tác dụng mà thôi. Hai cái, không có cái nào độc tồn. Cho nên Phật không làm lành mà cũng không làm dữ. Sự giải thoát phải tìm ở nơi thấu suốt chân lý, thoát ly chấp trước. Chỗ cuối cùng đạt đến là phải triệt ngộ thực tướng của các pháp.
4. Hoa nghiêm tông
Tông này cũng như Thiên thai tông, phát khởi ở Trung Hoa, căn cứ ở kinh Hoa Nghiêm, do hòa thượng Đỗ Thuận và Trí Nghiễm đời Tùy Đường lập ra.
Tông này cho rằng các pháp có sáu tướng: tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại. Gọi chung là “tam đối lục tướng”. Vạn vật đều có sáu tướng ấy. Khi sáu tướng ấy phát ra thì phân làm Hiện tượng giới và Thực tại giới, và khi sáu tướng ấy tương hợp nhau thì hiện tượng tức là thực tại, thực tại tức là hiện tượng.
Vạn hữu có “tam đối lục tướng” là do Thập huyền diệu lý duyên khởi. Thập huyền diệu lý và Lục tướng viên dung sinh ra cái lý sự vô ngại. Sự sự vô ngại luận là chỗ đặc sắc nhất trong giáo lý của Hoa nghiêm tông. Theo tông ấy thì phân biệt chân vọng, trừ khử điên đảo khiến cho tâm thanh tịnh, để cùng thực tại hợp nhất, thế là giải thoát.
5. Chân ngôn tông
Tông này căn cứ ở kinh Đại Nhật, lấy bí mật chân ngôn làm tông chỉ, cho nên gọi là Chân ngôn tông, hay là Mật tông. Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim-cang-tát-đỏa. Kim-cương-tát-đỏa truyền cho Long Thọ, Long Thọ truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương Trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không vào khoảng đời Đường đem tông này truyền sang Trung Hoa.
Chân ngôn tông chủ trương các thuyết Lục đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, cho sáu đại này là thực thể của vũ trụ. Lục đại xét về phương diện vũ trụ thì gọi là thể đại, hiện ra hình hài gọi là tướng đại, hiện ra ngôn ngữ, động tác gọi là dụng đại. Vạn hữu trong vũ trụ không có gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại. Gọi là chân như là lấy lý tính do sáu đại mà trừu tượng ra. Ngoài sáu đại ra, không thấy đâu là chân như.
Sự giải thoát của Chân ngôn tông là ở nơi “tự thân thành Phật”, cho nên bỏ hết chấp trược, theo cái hoạt động của Đại ngã. Phương thức giải thoát của tông này là ba mật, tức là thân, miệng và ý.
6. Thiền tông
Thiền tông không bàn luận về vũ trụ, chỉ chủ ở sự cầu được giải thoát mà thôi. Cứu cánh của Thiền tông không trói buộc nơi văn tự, nên chỉ lấy tâm truyền tâm mà thôi. Thực tướng của vũ trụ thuộc về phạm vi trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất là sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thật tướng được. Nếu không tọa thiền dùng trực giác thì không thể biết được thật tướng.
7. Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy sự quy y Tịnh độ làm mục đích, và tụng 3 bài kinh trụ cột là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà. Tịnh độ tông khởi phát từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong các kinh điển nói các vị Bồ-tát Mã Minh, Long Thụ và Thế Thân đều khuyên người ta nên tu Tịnh độ.